Monday, October 13, 2014

Cụm di tích miếu Nam Lãnh

Trên đường thiên lý Bắc Nam, Quảng Bình đón chào du khách bằng một thắng cảnh nổi tiếng: Đèo Ngang. Đi tiếp khoảng 8 km, du khách bắt gặp một ngôi làng nhỏ nằm chạy dài theo đường quốc lộ.

< Các cụ cao tuổi đang làm lễ trước ngôi miếu chính.

Đây là một ngôi làng bình thường cũng như bao làng quê khác trên đất nước Việt. Tới đây, du khách bắt gặp một con đường bê tông nhỏ nối quốc lộ với doanh trại của Đồn biên phòng 184. Rẽ tiếp vào một con đường nhỏ dẫn ta tới một quần thể di tích có tên gọi: Miếu Nam Lãnh, hay còn có tên chữ là “Tam toà tứ miếu”.

Cụm di tích miếu Nam Lãnh (hay còn gọi là Tam tòa tứ miếu) tọa lạc trên một vùng đất cao và khá bằng phẳng phía đông thôn Nam Lãnh, xã Quảng Phú, huyện Quảng Trạch. Theo một số nguồn tư liệu ở địa phương thì cụm di tích Miếu Nam Lãnh được xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ 18. Cũng như bao vùng quê khác ở Việt Nam, các đền miếu thường được xây cất chủ yếu để thờ, tế lễ những vị thần bảo hộ, những người có công khai phá đất đai, lập làng xã.


< Cổng làng Nam Lãnh - Đường vào Miếu.

Vùng đất Nam Lãnh trước kia còn được gọi là “Kẻ Hói”- nghĩa là vùng sông nước. Các địa danh nơi đây đều mang tên sông nước: Khe Mương, Khe Sâu, Khe Cạn, Ngầm Cóc, Ngầm Nậy, Bàu Lầy, Vực Mụ Chính... với hệ thống bàu, hói chi chít dọc ngang. Diện mạo của vùng đất đã góp phần làm nên bản chất con người nơi đây là chăm chỉ, cần cù, chịu thương chịu khó. Cuộc sống tuy còn nhiều vất vả nhọc nhằn nhưng người dân nơi đây vẫn không quên công đức của tổ tiên, họ đã cùng nhau xây đền miếu để thờ phụng và ghi nhớ công lao các bậc tiền nhân đã có công khai phá, lập làng, trong các công trình đó có cụm Tam tòa tứ miếu.


< Toàn cảnh miếu Nam Lãnh, hay còn gọi là Tam tòa tứ miếu.

Cụm Tam tòa tứ miếu được xây dựng trên một vùng đất nhô cao mà nhân dân ở đây thường gọi là Lòi Trọc, thuộc địa phần thôn Nam Lãnh – xã Quảng Phú - huyện Quảng Trạch - Tỉnh Quảng Bình. Miếu nằm quay mặt về hướng Đông – Nam. Toàn bộ khuôn viên miếu rộng 480m2 bao gồm cổng, bức bình phong và 4 ngôi miếu có kích thước khác nhau và nội dung, ý nghĩa của các ngôi miếu cũng khác nhau. Từ ngoài vào gồm: Cổng, miếu thứ nhất bên trái, bức bình phong, miếu thứ hai bên trái, miếu chính và miếu thứ tư bên phải. Xung quang khu vực miếu là những ụ đá to mọc chồng lên nhau, cây cối mọc um tùm, tạo nên một khung cảnh rất linh thiêng. Cổng miếu được làm bằng hai cột đá tai mèo, cao khoảng 1m, khoảng cách giữa hai cột là 3,5m.

< Lối dẫn lên miếu, cổng miếu là hai cột đá tai mèo.

Cách cổng khoảng 6m là miếu thứ nhất, miếu nằm phía bên trái, trước cửa miếu có hai chữ Hán, được phiên nâm là: Cách Tư (Dịch nghĩa: Cách – khuôn phép; Tư – kính mến), có nghĩa là: Đã có lòng kính mến đến đây thì phải tuân theo khuôn phép.

Ngôi miếu này được xây dựng với lối kiến trúc phần đỉnh có 3 tầng, mái cong hình đao chạm đầu rồng, lợp ngói âm dương. Phần nối giữa các tầng mái đều có đắp nổi hoa văn hình rồng được ghép bằng các mảnh sành sứ khá tinh xảo. Miếu này tương tự như nhà thường trực để bước đầu giao tiếp với khách đến thăm miếu. Ngoài ra hai bên thành miếu còn có hai câu đối bằng chữ Hán, nhưng nay đã lu mờ không còn đọc được.

< Miếu thứ nhất có chức năng như nhà thường trực, nằm tách biệt với ba miếu kia.

Tiếp theo trước cửa quần thể ba ngôi miếu liền nhau là một bức bình phong có nhiều hoa văn và một con ngựa đắp nổi ghép sành sứ, bức bình phong này đã mất một nữa phần trên. Trước mặt bình phong có một bàn thờ, hai bên là hai con voi chầu vào, nhưng nay còn con bên phải là tương đối nguyên vẹn, con bên trái đã sứt mẻ nhiều.

Miếu thứ hai là miếu nằm bên trái của quần thể ba miếu liền nhau, trước cửa miếu có hai chữ Hán được phiên âm là: Trang Tĩnh (Trang – nghiêm trang, kính cẩn; Tĩnh – yên tĩnh, trong sạch), có nghĩa là phải chỉnh đốn tư cách thật trang nghiêm, trong sạch cả về thể chất lẫn tinh thần để vào kính lễ thần linh. Miếu này có nhiệm vụ kiểm tra, nhắc nhỡ lại tư thế của khách chuẩn bị vào kính lễ thần linh cho nghiêm chỉnh. Miếu cũng có hai câu đối bằng chữ Hán hai bên thành nhưng đã bị lu mờ không còn đọc được.

< Bức bình phong trước cửa quần thể 3 ngôi miếu chính.

Miếu chính giữa (miếu thứ ba) là miếu trung tâm, trước cửa miếu có 3 chữ Hán được phiên âm là Từ Anh Linh, có nghĩa là miếu thờ vị thần anh dũng, linh thiêng hiển hách. Miếu này còn tương đối hoàn chỉnh. Mặt của hai trụ ngoài cùng có hai câu đối bằng chữ Hán, đọc phiên âm từ phải qua là:
Tráng liệt thần y quang hải Bắc,
Trang nghiêm điện ngọc thọ sơn Nam.

Có nghĩa là:
Hiển hách sáng ngời thần bể Bắc
Trang nghiêm còn mãi điện son Nam.


< Tượng voi chầu phía bên phải.

Kế liền hai trụ ngoài cùng là bức thành với hình của ông Thiện và ông Ác. Phần miếu chính gồm hai trụ hai bên cửa miếu, với hoa văn hình rồng dân gian đang vờn mây, được đắp nổi và ghép bằng sành sứ rất đẹp. Liền sát hai trụ là hai thành miếu và hai câu đối hai bên bằng chữ Hán, được phiên âm:

Duy trì tam bảo phước
Bảo hữu tứ phương dân.

Có nghĩa là:
Giữ gìn cõi phúc nơi tam bảo
Giúp đỡ nhân dân ở bốn phương.


< Cánh gà bên trái.

Bàn thờ của miếu chính có hoa văn hình hai con rồng chầu vào nhau, trên bàn thờ có một lư hương, phía sau có hoa văn hình rồng vờn mây rất đẹp và còn rất nguyên vẹn. Đây là ngôi miếu có kích thước lớn nhất., là nơi thờ những vị thần linh thiêng, hiển hách, những người có công khai cơ lập làng.

Miếu cuối cùng là miếu thứ tư bên phải. Trước cửa miếu có hai chữ Hán được phiên âm là Tráng Địch, có nghĩa là dẫn dắt lên cho thêm mạnh mẽ. Miếu này xác nhận lòng thành kính của những thiện nam tín nữ đến kính lễ thần linh thì được ban cho sức mạnh, dẫn dắt cho thành đạt, hưởng hạnh phúc dồi dào… Cũng như miếu thứ nhất và miếu thứ hai, miếu này trước mặt trụ cũng có hai câu đối bằng chữ Hán nhưng đã lu mờ không còn đọc được.

Tất cả bốn ngôi miếu này đều có phần đỉnh gồm ba tầng, tất cả mái đều được lợp ngói âm dương, mái cong hình đao chạm đầu rồng, khoảng cách giữa các tầng đều có hoa văn hình rồng chơi hoa, được đắp nổi và ghép bằng sành sứ.


< Cánh gà bên phải.

Với tổng thể không lớn lắm và lối kiến trúc xây dựng cũng khá đơn giản nhưng với cách bài trí hợp lý, đặc biệt là nội dung, ý nghĩa của các ngôi miếu đã thể hiện sự uy nghiêm, linh thiêng của khu tứ miếu, đó cũng là tình cảm, lòng thành kính của những người dân trong vùng với các vị thần linh, các bậc tiền nhân.

Trải qua hơn hai thế kỷ trường tồn giữa vùng thiên nhiên khắc nghiệt, qua hai cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù nên khu tứ miếu hiện nay không còn được nguyên vẹn. Tuy nhiên, những giá trị lịch sử- văn hóa, những sự kiện lịch sử đã diễn ra nơi đây thì vẫn còn mãi theo thời gian.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nằm ở vị trí khá kín đáo, xung quanh lại được bao bọc bởi những rặng trâm bầu dày đặc, cụm miếu Nam Lãnh đã được sử dụng làm nơi tổ chức các cuộc họp bí mật của Đảng cũng như làm nơi cất giấu vũ khí.


< Bàn thờ ở miếu chính qua thời gian dài vẫn còn rất nguyên vạn với những nét vẽ tài hoa.

Đặc biệt, các vùng Roòn- Nam Lãnh là nơi có thể xây dựng lực lượng lâu dài, là cầu nối giữa vùng tự do Thanh- Nghệ- Tĩnh với chiến trường Bình- Trị- Thiên. Vì vậy Nam Lãnh cũng chính là mục tiêu quân sự mà thực dân Pháp quyết tâm dồn lực lượng để chiếm giữ nhằm cắt đứt mạch máu giao thông cũng như mọi sự chi viện cho chiến trường miền Nam.

Trong vòng 7 năm (từ 1947- 1954) thực dân Pháp đã mở hàng chục cuộc tấn công, càn quét từ các đồn bốt đóng ở vùng Quảng Trạch ra các vùng Roòn- Nam Lãnh, trong đó chúng thường xuyên lùng sục, chà đi xát lại quanh khu vực tứ miếu. Tuy nhiên, nhờ có sự cảnh giác cao độ, sự mưu trí, dũng cảm và tinh thần chiến đấu quật cường, quân và dân Nam Lãnh đã đánh bật các cuộc càn quét của quân thù, giữ yên làng xóm, quê hương.

Trong những năm chống Mỹ, cũng với trọng trách là hậu phương trục tiếp của chiến trường miền Nam, nhân dân Nam Lãnh cùng với nhân dân Roòn đã chiến đấu kiên cường, đánh trả máy bay Mỹ, giữ vững mạch máu giao thông, đảm bảo sự chi viện cho chiến trường, khu vực miếu Nam Lãnh còn có nhiệm vụ cất giấu, che chở các đoàn xe chi viện ngang qua đây bị máy bay Mỹ oanh kích.

Với những giá trị lịch sử- văn hóa cùng với những sự kiện đã từng diễn ra nơi đây, Ban Quản lý Di tích Quảng Bình đã hoàn tất các thủ tục hồ sơ trình duyệt và đã được UBND tỉnh Quảng Bình ra quyết định xếp hạng di tích tại Quyết định số 43/2005/ QĐ-UBND ngày 24/8/2005.

Tổng hợp từ Báo Quảng Bình, Caucaquangbinh
Du lịch, GO!